Thiết kế và chế tạo HMS Kempthorne (K483)

Những tàu frigate lớp Captain thuộc phân lớp Evarts có chiều dài chung 289 ft 5 in (88,21 m), mạn tàu rộng 35 ft 1 in (10,69 m) và độ sâu mớn nước khi đầy tải là 8 ft 3 in (2,51 m). Chúng có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.140 tấn Anh (1.160 t); và lên đến 1.430 tấn Anh (1.450 t) khi đầy tải. Hệ thống động lực bao gồm bốn động cơ diesel General Motors Kiểu 16-278A nối với bốn máy phát điện để vận hành hai trục chân vịt; công suất 6.000 hp (4.500 kW) cho phép đạt được tốc độ tối đa 21 kn (24 mph; 39 km/h), và có dự trữ hành trình 4.150 nmi (4.780 dặm; 7.690 km) khi di chuyển ở vận tốc đường trường 12 kn (14 mph; 22 km/h).[5]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội 1,1 inch/75 caliber bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[5]

USS Trumpeter (DE-279) được đặt hàng vào ngày 18 tháng 1, 1942, và được đặt lườn tại Xưởng hải quân BostonBoston, Massachusetts vào ngày 5 tháng 6, 1943;[2][3] tên nó được đặt theo Trung úy Hải quân George Nelsom Trumpeter (1919-1942), phi công hải quân phục vụ trên tàu sân bay hộ tống USS Santee (CVE-29) và mất tích trong Chiến dịch Torch tại Bắc Phi vào ngày 8 tháng 11, 1942.[1] Con tàu được hạ thủy vào ngày 17 tháng 7, 1943,[2][3] và được chuyển giao cho Anh Quốc vào ngày 23 tháng 10, 1943, rồi nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia Anh như là chiếc HMS Kempthorne (K483) vào ngày 31 tháng 10, 1943[3] dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Alan Brown.[2]